Ví dụ về rủi ro tín dụng - 3 Ví dụ Hàng đầu về Rủi ro Tín dụng có Giải thích

Ví dụ về rủi ro tín dụng

Ví dụ về Rủi ro Tín dụng sau đây cung cấp một sơ lược về Rủi ro Tín dụng phổ biến nhất. Không thể cung cấp một tập hợp đầy đủ các ví dụ giải quyết mọi biến thể trong mọi tình huống vì có hàng ngàn Rủi ro như vậy.

Rủi ro tín dụng là rủi ro mất mát đối với một khoản nợ xảy ra khi người đi vay không trả lại được số tiền gốc và lãi liên quan của khoản vay cho người cho vay vào ngày đến hạn. Trong phần này, chúng ta sẽ xem một số ví dụ thực tế về rủi ro tín dụng để hiểu rõ hơn về nó.

  • Khi một người cho vay cung cấp tín dụng cho đối tác (thông qua các khoản vay, tín dụng trên hóa đơn, đầu tư vào trái phiếu hoặc bảo hiểm), thì người cho vay luôn tồn tại rủi ro rằng họ có thể không nhận lại được số tiền đã ghi có từ đối tác. Những rủi ro đó được gọi là rủi ro tín dụng hoặc rủi ro đối tác.
  • Nó tính toán khả năng tổng thể của một người đi vay để trả lại các khoản vay cho người cho vay. Để tránh hoặc giảm rủi ro tín dụng, người cho vay thường kiểm tra uy tín và lý lịch của người đi vay.
  • Với mức độ tín nhiệm cao (có nghĩa là rủi ro tín dụng thấp), người đi vay có thể nhận được số tiền vay cao hơn mà không cần kèm theo bất kỳ tài sản đảm bảo nào vào hợp đồng; nếu không, khoản vay sẽ được phân bổ theo giá trị của tài sản thế chấp kèm theo.

3 Ví dụ về Rủi ro Tín dụng Hàng đầu

Mỗi ví dụ về Rủi ro tín dụng nêu rõ chủ đề, lý do có liên quan và nhận xét bổ sung nếu cần.

Ví dụ 1

Giả sử Tony muốn tiền tiết kiệm của mình trong tiền gửi cố định ngân hàng được đầu tư vào một số trái phiếu công ty vì nó có thể mang lại lợi nhuận cao hơn. Tuy nhiên, ông biết rằng trái phiếu bao gồm rủi ro vỡ nợ đối tác hoặc rủi ro tín dụng, tức là công ty phát hành trái phiếu sẽ bị vỡ nợ và Tony sẽ không nhận được bất kỳ dòng tiền nào như đã hứa.

Vì vậy, Tony quyết định định giá những rủi ro này để được hoàn trả cho những rủi ro bổ sung mà anh ta sẽ phải chịu. Ông nhận thấy hai thước đo cơ bản của rủi ro tín dụng là: -

  • Điểm rủi ro tín dụng - Mọi tổ chức và cá nhân đều sử dụng cả yếu tố định tính và định lượng để đo lường rủi ro đó của khách hàng vay. Người cho vay sử dụng điểm rủi ro tín dụng để cho phép hoặc từ chối đơn xin vay. Điểm tín dụng được thể hiện dưới dạng số nằm trong khoảng từ 300 đến 850, trong đó 850 là điểm tín dụng cao nhất có thể.
  • Xếp hạng tín dụng trái phiếu - Các công ty giao dịch công khai phát hành trái phiếu đã được xếp hạng bởi các tổ chức xếp hạng như Moody's, Standard and Poor (S&P), Fitch, v.v. Xếp hạng là một cấp theo định dạng bảng chữ cái được gán cho trái phiếu. Ví dụ: xếp hạng của S&P có thể thay đổi từ AAA (công ty an toàn nhất) đến D (công ty mặc định).

Lợi thế của việc đầu tư vào một công ty được xếp hạng là nhà đầu tư có thể hiểu được các cơ quan xếp hạng nghĩ gì về rủi ro tín dụng của công ty. Ngoài ra, xếp hạng giúp nhà đầu tư tính toán mức chênh lệch thích hợp để chịu thêm rủi ro được gọi là chênh lệch mặc định.

Ví dụ: giả sử Tony mua trái phiếu 10 năm với xếp hạng 'BBB'. Mức chênh lệch mặc định hiện tại cho trái phiếu tương tự là 1,84% và lãi suất phi rủi ro cho trái phiếu 10 năm là 1,5%. Vậy lãi suất mà Tony yêu cầu phải là (1,84 + 1,5) 3,34%.

Tuy nhiên, các tổ chức xếp hạng không phải lúc nào cũng đưa ra dự đoán chính xác và nhà đầu tư có trách nhiệm phải kiểm tra kỹ rủi ro tín dụng của công ty mà họ muốn đầu tư. Sau đây là một số yếu tố cơ bản giúp nhà đầu tư đo lường rủi ro của công ty: -

  • Nhà đầu tư có thể xem báo cáo tài chính của công ty. Nếu công ty tạo ra dòng tiền lớn hơn từ hoạt động, thì công ty đó có xếp hạng tín dụng thấp hơn.
  • Thực hiện một công thức phân tích tỷ số, ví dụ, một tỷ số quan trọng là tỷ lệ bao phủ lãi vay, đo lường khả năng hoàn trả các khoản nợ của một công ty.
Tỷ lệ chi trả lãi vay = EBIT / Chi phí lãi vay

Giả sử Tony điều tra một công ty có thu nhập trước lãi vay và thuế (EBIT) là 3500 triệu và chi phí lãi vay là 700 triệu đô la.

Do đó, tỷ lệ bao trả lãi vay = 3500/700 = 5

Theo dữ liệu của các cơ quan khác nhau, các công ty có tỷ lệ bao phủ lãi suất từ ​​4,5% đến 6% có xếp hạng 'A-' và rủi ro vỡ nợ tương đối của nó là 2,5%. Tức là, Tony nên tính lãi suất cao hơn 2,5% so với lãi suất phi rủi ro.

Ví dụ số 2

Giả sử ông Tony và một doanh nhân điều hành một doanh nghiệp bán buôn quần áo giới hạn ở Thành phố New York của Mỹ. Để mở rộng hoạt động kinh doanh, ông bắt đầu cung cấp các khoản tín dụng lớn cho khách hàng của mình mà không có bất kỳ chính sách tín dụng xác định và kiểm tra tín nhiệm nào.

Tony bỏ qua việc xem xét các rủi ro tín dụng tăng cao. Vào cuối năm, anh nhận thấy một số khách hàng của mình không thanh toán hóa đơn đúng hạn. Khi điều tra lý lịch của các khách hàng của mình, anh nhận thấy rằng một vài trong số họ có độ tin cậy rất thấp.

Với sự tín nhiệm của khách hàng thấp, rủi ro tín dụng đối với Tony tăng cao và có thể nảy sinh khả năng anh ta không được hoàn lại tiền cho hàng hóa mà anh ta đã cung cấp cho khách hàng của mình.

Không có / thanh toán thấp hóa đơn thông thường ảnh hưởng tiêu cực đến dòng tiền của công ty Tony và gây ra tổn thất cho đơn vị, thường được gọi là nợ khó đòi.

Để tránh những rủi ro như vậy, Tony nên cấu trúc một chính sách tín dụng hiệu quả và kiểm tra mức độ tín nhiệm của khách hàng trước khi cung cấp bất kỳ khoản tín dụng hoặc khoản vay nào.

Ví dụ # 3

Giả sử ông Tony muốn mua một chiếc ô tô trị giá 120.000 đô la. Anh ta đã trả số tiền là 20.000 đô la như một khoản trả trước và quyết định vay ngân hàng cho số tiền 100.000 đô la còn lại với lãi suất 20% mỗi năm sẽ được trả trong 1 năm.

Điều này có nghĩa là ngân hàng cần nhận lại 120.000 đô la trong khoảng thời gian một năm từ Tony. Ban quản lý rủi ro của ngân hàng đã kiểm tra rủi ro tín dụng của Tony trước khi phát hành khoản vay, tức là khả năng anh ta không thể trả khoản vay hoặc các khoản trả góp vào ngày đến hạn.

Với rủi ro tín dụng cao hơn, đơn xin vay của Tony có thể bị ngân hàng từ chối, hoặc ngân hàng sẽ phân bổ một khoản tiền thấp hơn phù hợp với tiêu chí uy tín (khả năng trả nợ) của anh. Tony, với số lượng rủi ro tín dụng thấp, được chấp thuận phân bổ cho vay.

Tony đã trả thành công một vài khoản trả góp, mỗi khoản 10.000 đô la. Nhưng trong năm, Tony đã thua lỗ lớn trong hoạt động kinh doanh của mình do cung cấp hàng hóa theo hình thức tín dụng cho những khách hàng có uy tín thấp và áp dụng chính sách tín dụng tự do.

Ngân hàng cho rằng Tony có thể không thanh toán thêm được khoản vay nào nữa. Tình hình hiện tại tạo ra rủi ro rất lớn cho ngân hàng đối với khoản vay được cung cấp cho Tony.

thú vị bài viết...